Cây Mạch môn đông là cây thường xanh, tạo thành dạng như một đám cỏ sống lâu năm cao khoảng 10–40 cm. Các lá thẳng, mọc từ gốc, hẹp dài, cuố...
Cây Mạch môn đông là cây thường xanh, tạo thành dạng như một đám cỏ sống lâu năm cao khoảng 10–40 cm. Các lá thẳng, mọc từ gốc, hẹp dài, cuống có bẹ, dài 20–40 cm, rộng 1–4 mm, mép lá hơi có răng cưa. Rễ chùm. Hoa màu trắng tới tím hoa cà nhạt, mọc thành cành hoa ngắn trên thân cây dài khoảng 5–10 cm. Quả là dạng quả mọng màu xanh lam đường kính 5–6 mm, chứa 1-2 hạt.
Trong y học cổ truyền Trung Hoa củ của Ophiopogon japonicus, gọi là mạch môn đông, là một loại dược thảo có tác dụng tim mạch để bổ sung âm. Theo Chinese Herbal Medicine Materia Medica, loại dược thảo này có vị cam (ngọt), vi khổ (hơi đắng) và hàn (lạnh), có tác dụng với các kinh tâm (tim), phế (phổi), vị (dạ dày) và bổ âm, chữa ho, khô lưỡi, khô miệng và táo bón. Chi Sơn mạch đông (Liriope) cũng được dùng để thay thế.
Nó cũng được trồng làm cây cảnh. Một vài giống cây trồng đã được chọn lọc, như 'Albus' (hoa trắng), 'Compactus' và 'Kyoto Dwarf' (dạng lùn, không cao quá 4–5 cm), 'Silver Dragon' (đa dạng, với các lá có sọc trắng). Người ta cũng hay bán nó như là loại cây trang trí cho các bể cảnh nước ngọt, nhưng do nó không phải là thực vật thủy sinh thật sự nên nó sẽ chết sau vài tháng. Nó có thể chịu được lạnh tới khoảng -20 °C khi ngủ đông về mùa đông trong vườn ở điều kiện trồng trên đất thông thường nhưng khi nuôi ngầm dưới mặt nước thì nó lại cần nhiệt độ tới 18-25 °C. Nó có thể phát triển tốt khi đủ nắng hoặc có bóng râm một phần. Việc nhân giống được thực hiện bằng các chồi bên.
Tại Việt Nam, nó mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi để lấy củ làm thuốc. Củ có vị ngọt, hơi đắng, làm thuốc ho, long đờm, lợi tiểu. Dùng củ phơi, sấy khô, dưới dạng thuốc sắc, bột, hoàn.
Còn ở trong phạm vi nhân dân. Nhưng là một vị thuốc rất thông dụng. Dùng làm thuốc ho long đàm, thuốc bổ (bệnh phổi, gầy còm). Còn dùng chữa thiếu sữa, lợi tiểu, chữa sốt khát nước. Ngày dùng từ 6 – 20g dưới dạng thuốc sắc. Theo tài liệu cổ, mạch môn có vị ngọt, hơi đắng tính hơi hàn, vào 3 kinh tâm, phế và vị. Có tác dụng thanh tâm, nhuận phế, dưỡng vị sinh tân, hóa đờm, chỉ ho, dùng chữa hư lao, ho, thổ huyết, ho ra máu, miệng khô khát, bệnh nhiệt tân dịch khô. Những người tỳ vị hư hàn, đại tiện lỏng không dùng được.
Chú thích:
Ngoài rễ của cây mạch môn đông, ta còn dùng rễ củ phơi khô của cây tóc tiên Liriope spicata Lour cùng họ.
Đó là một loại cỏ sống lâu năm, thân rễ ngắn, dày, rễ chùm, lá hẹp dài mọc từ gốc, dài 30cm, rộng 4 – 7mm cọng mang ho thường ngắn hơn lá, hoa màu hơi tím, hợp thành xim 3 – 5 hoa.
Quả mọng, màu xanh tím. Cùng một công dụng nhưng hiệu lực không bằng.
Trong y học cổ truyền Trung Hoa củ của Ophiopogon japonicus, gọi là mạch môn đông, là một loại dược thảo có tác dụng tim mạch để bổ sung âm. Theo Chinese Herbal Medicine Materia Medica, loại dược thảo này có vị cam (ngọt), vi khổ (hơi đắng) và hàn (lạnh), có tác dụng với các kinh tâm (tim), phế (phổi), vị (dạ dày) và bổ âm, chữa ho, khô lưỡi, khô miệng và táo bón. Chi Sơn mạch đông (Liriope) cũng được dùng để thay thế.
Nó cũng được trồng làm cây cảnh. Một vài giống cây trồng đã được chọn lọc, như 'Albus' (hoa trắng), 'Compactus' và 'Kyoto Dwarf' (dạng lùn, không cao quá 4–5 cm), 'Silver Dragon' (đa dạng, với các lá có sọc trắng). Người ta cũng hay bán nó như là loại cây trang trí cho các bể cảnh nước ngọt, nhưng do nó không phải là thực vật thủy sinh thật sự nên nó sẽ chết sau vài tháng. Nó có thể chịu được lạnh tới khoảng -20 °C khi ngủ đông về mùa đông trong vườn ở điều kiện trồng trên đất thông thường nhưng khi nuôi ngầm dưới mặt nước thì nó lại cần nhiệt độ tới 18-25 °C. Nó có thể phát triển tốt khi đủ nắng hoặc có bóng râm một phần. Việc nhân giống được thực hiện bằng các chồi bên.
Tại Việt Nam, nó mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi để lấy củ làm thuốc. Củ có vị ngọt, hơi đắng, làm thuốc ho, long đờm, lợi tiểu. Dùng củ phơi, sấy khô, dưới dạng thuốc sắc, bột, hoàn.
Công dụng và liều dùng:
Còn ở trong phạm vi nhân dân. Nhưng là một vị thuốc rất thông dụng. Dùng làm thuốc ho long đàm, thuốc bổ (bệnh phổi, gầy còm). Còn dùng chữa thiếu sữa, lợi tiểu, chữa sốt khát nước. Ngày dùng từ 6 – 20g dưới dạng thuốc sắc. Theo tài liệu cổ, mạch môn có vị ngọt, hơi đắng tính hơi hàn, vào 3 kinh tâm, phế và vị. Có tác dụng thanh tâm, nhuận phế, dưỡng vị sinh tân, hóa đờm, chỉ ho, dùng chữa hư lao, ho, thổ huyết, ho ra máu, miệng khô khát, bệnh nhiệt tân dịch khô. Những người tỳ vị hư hàn, đại tiện lỏng không dùng được.
Đơn Thuốc Có Mạch Môn Đông:
Bài thuốc chữa bệnh ho, khó thở, ho lâu ngày:
Mạch môn đông 16g, bán hạ 8g, đảng sâm 4g, cam thảo 4g, gạo nếp sao vàng 4g, đại táo 4g, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia làm 3 lần uống trong ngày (đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh).Chú thích:
Ngoài rễ của cây mạch môn đông, ta còn dùng rễ củ phơi khô của cây tóc tiên Liriope spicata Lour cùng họ.
Đó là một loại cỏ sống lâu năm, thân rễ ngắn, dày, rễ chùm, lá hẹp dài mọc từ gốc, dài 30cm, rộng 4 – 7mm cọng mang ho thường ngắn hơn lá, hoa màu hơi tím, hợp thành xim 3 – 5 hoa.
Quả mọng, màu xanh tím. Cùng một công dụng nhưng hiệu lực không bằng.
Bình luận